Lúc tinh thần sảng khoái thì ai nấy đều sẵn lòng ra tay trợ giúp người khác, nhưng chỉ khi mệt mỏi, kiệt sức mới có thể nhìn ra sự tu dưỡng của một người. Người tu dưỡng càng tốt thì càng có khả năng kiềm chế bản thân mình, rất đáng để chúng ta kết giao.

一個人值不值得交往 就看他疲憊時的模樣

Người có đáng kết giao hay không, hãy xem bộ dạng lúc họ mệt mỏi

上個月,和朋友去爬了一次泰山,深刻地體會到年齡和意志力成反比這句話。爬到一半的時候,我就覺得腿已經不是自己的了,朋友們起初還會互相幫襯,到了後半程,往往誰也顧不上誰了。

Shàng gè yuè, hé péngyǒu qù pále yīcì tàishān, shēnkè de tǐhuì dào niánlíng hé yìzhì lì chéng fǎnbǐ zhè jù huà. Pá dào yībàn de shíhòu, wǒ jiù juédé tuǐ yǐjīng bùshì zìjǐ dele, péngyǒumen qǐchū hái huì hùxiāng bāngchèn, dàole hòubàn chéng, wǎngwǎng shuí yě gù bù shàng shuíle.

Tháng trước, tôi cùng một người bạn đi leo núi Thái Sơn, lúc này tôi mới lĩnh hội sâu sắc được câu “tỷ lệ nghịch giữa tuổi tác và ý chí” là như thế nào. Leo được nửa quãng đường, tôi đã cảm thấy đôi chân không phải là của mình nữa, bạn bè ban đầu còn quan tâm và giúp đỡ nhau, nhưng đến nửa quãng đường sau thì hầu như thân ai người nấy lo.

有個朋友曾經跟我說,爬山的樂趣從來不在風景,光是那些形形色色的路人就足夠他寫本書了。以前,我不相信,可這次卻深有體會。

Yǒu gè péngyǒu céngjīng gēn wǒ shuō, páshān de lèqù cónglái bu zài fēngjǐng, guāng shì nàxiē xíngxíngsèsè de lùrén jiù zúgòu tā xiě běnshūle. Yǐqián, wǒ bù xiāngxìn, kě zhècì què shēn yǒu tǐhuì.

Một người bạn từng nói với tôi rằng, niềm vui của việc leo núi không phải ở phong cảnh thiên nhiên, mà là hình ảnh những người leo núi mỗi người một vẻ, muôn hình vạn trạng, đủ để viết thành một cuốn sách sinh động. Trước kia, tôi không tin lắm, nhưng lần này quả thực mới thấu hiểu sâu sắc.

Tu dưỡng của một người, phải xem bộ dạng lúc họ mệt mỏi

我們一路和一群春遊的大學生同行,他們像是一個社團在組織活動。

Wǒmen yīlù hé yīqún chūnyóu de dàxuéshēng tóngxíng, tāmen xiàng shì yīgè shètuán zài zǔzhī huódòng.

Suốt cả chặng đường, chúng tôi cùng đi với một tốp sinh viên đang dạt dào sức trẻ. Hình như các em là một đoàn thể xã hội đang tổ chức hoạt động.

剛上山的時候,每個人都活力充沛,有說有笑。其中,一個熱情活潑的男孩引起了我的注意,他背著一個雙肩背包,手上還拿著一個塑膠袋,裡面裝滿了食物,看上去很沈。

Gāng shàngshān de shíhòu, měi gèrén dōu huólì chōngpèi, yǒu shuō yǒu xiào. Qízhōng, yīgè rèqíng huópō de nánhái yǐnqǐle wǒ de zhùyì, tā bèizhe yīgè shuāng jiān bèibāo, shǒu shàng hái názhe yīgè sùjiāo dài, lǐmiàn zhuāng mǎnle shíwù, kàn shàngqù hěn chén.

Khi bắt đầu leo núi, ai nấy đều tràn trề sức sống, cười cười nói nói. Trong số đó, một cậu thanh niên nhiệt tình và hoạt bát đã thu hút sự chú ý của tôi. Cậu ấy đeo một cái ba lô to trên lưng, tay còn xách một túi nilon đựng đầy đồ ăn, trông rất nặng. 

可他還是一路招呼著落後的同學,幫他們拿東西,不時地詢問大家要不要休息,儼然是個大家長的模樣。

Kě tā háishì yīlù zhāo hū zhuó luòhòu de tóngxué, bāng tāmen ná dōngxī, bù shí de xúnwèn dàjiā yào bùyào xiūxí, yǎnrán shìgè dàjiā zhǎng de múyàng.

Nhưng suốt cả chặng đường cậu vẫn hô hào cổ vũ những bạn học đang rớt lại phía sau, giúp các bạn cầm đồ, rồi thỉnh thoảng còn hỏi mọi người có cần nghỉ ngơi không, trông bộ dạng cậu ta như một bậc phụ huynh đầy trách nhiệm.

朋友在一旁讚賞:看看現在的90後,哪像傳說中的那麼自私自利。反倒是我們這些自詡老友的人,自顧自地爬山,想想有點慚愧。

Péngyǒu zài yīpáng zànshǎng: Kàn kàn xiànzài de 90 hòu, nǎ xiàng chuánshuō zhōng dì nàme zìsī zì lì. Fǎn dǎo shì wǒmen zhèxiē zì xǔ lǎo yǒu de rén, zì gù zì de páshān, xiǎng xiǎng yǒudiǎn cánkuì.

Anh bạn đi cùng tôi cũng phải thốt lên khen ngợi: “Nhìn xem thế hệ 9X bây giờ này, đâu có ích kỷ nhỏ nhen như lời đồn thổi. Ngược lại những người bạn già khoe khoang khoác lác như chúng ta, thì thân ai người nấy leo. Ngẫm lại có chút xấu hổ”.

Khó khăn lắm mới biết lòng người, khi leo núi lại càng sáng tỏ hơn

困境中見人心,爬山時更是明顯。每個人的體力和意志力都相差甚遠,想要一起到達終點並不是件容易的事。我想有這麼個熱心腸在身旁,爬山應該會變得容易一些。

Kùnjìng zhōng jiàn rénxīn, páshān shí gèng shì míngxiǎn. Měi gèrén de tǐlì hé yìzhì lì dōu xiāngchà shényuǎn, xiǎng yào yīqǐ dàodá zhōngdiǎn bìng bùshì jiàn róngyì de shì. Wǒ xiǎng yǒu zhème gè rèxīncháng zài shēn páng, páshān yīnggāi huì biàn dé róngyì yīxiē.

Khó khăn mới biết lòng người, khi leo núi lại càng sáng tỏ hơn. Thể lực và ý chí của mỗi người khác nhau rất nhiều, nên muốn cùng nhau đi tới đích không phải là một chuyện dễ dàng. Tôi từng nghĩ rằng nếu có một người nhiệt tình như cậu thanh niên ấy đồng hành, thì cuộc leo núi cũng sẽ trở nên dễ dàng biết mấy.

可是,我錯了。從中段開始,劇情就出了出乎意料的反轉。每個人都像霜打了的茄子一樣,一個個垂頭喪氣,步履艱難地前行,話都不想說一句。

Kěshì, wǒ cuòle. Cóng zhōngduàn kāishǐ, jùqíng jiù chūle chū hū yìliào de fǎn zhuǎn. Měi gèrén dōu xiàng shuāng dǎle de qiézi yīyàng, yīgè gè chuítóusàngqì, bùlǚ jiānnán de qián xíng, huà dōu bùxiǎng shuō yījù.

Nhưng, tôi đã sai! Đi được nửa quãng đường, thì câu chuyện hoàn toàn xoay ngược ngoài dự liệu. Khi đi trai tráng, giữa đường bủng beo, người nào người nấy mặt mày ủ dột, nặng nề lê bước về phía trước, chẳng ai buồn mở miệng nói một lời. 

這時,那個熱情的男孩臉突然變得很臭,誰和他說話都是一副愛搭不理的樣子,一邊走一邊埋怨身旁的女同學為什麼要帶那麼多東西。

Zhèshí, nàgè rèqíng de nánhái liǎn túrán biàn dé hěn chòu, shuí hé tā shuōhuà dōu shì yī fù ài dā bù lǐ de yàngzi, yībiān zǒu yībiān mányuàn shēn páng de nǚ tóngxué wèishéme yào dài nàme duō dōngxī.

Lúc này, khuôn mặt của cậu thanh niên nhiệt tình ban nãy trở nên rất khó coi, ai bắt chuyện cậu cũng lơ đi như không nghe thấy, còn vừa đi vừa oán trách bạn nữ bên cạnh “sao mang nhiều đồ thế không biết!”

滿滿的好意最終變成了沈重的包袱。扔下覺得丟臉,不扔又覺得疲憊,所以只好憤怒。

Mǎn mǎn de hǎoyì zuìzhōng biànchéngle chénzhòng de bāofú. Rēng xià juédé diūliǎn, bù rēng yòu juédé píbèi, suǒyǐ zhǐhǎo fènnù.

Ý tốt ban đầu của cậu ta cuối cùng lại trở thành gánh nặng. Quẳng đồ đi thì sợ mất mặt, mà cầm thì lại thấy mệt, nên chỉ đành biết nổi lẩm bẩm cằn nhằn.

這時,一直默默無聞的一個男孩卻突然走了過來,笑著給他遞上一瓶可樂,接過他的背包,拍著他的肩膀說:”快了!快了!”

Zhèshí, yīzhí mòmòwúwén de yīgè nánhái què túrán zǒule guòlái, xiàozhe gěi tā dì shàng yī píng kělè, jiēguò tā de bèibāo, pāizhe tā de jiānbǎng shuō:”Kuàile! Kuàile!”

Lúc này, một cậu bạn trầm mặc ít nói lại đột nhiên bước tới, mỉm cười đưa cho cậu ấy một lon nước và đỡ lấy chiếc ba lô, vỗ vỗ vào vai cậu ta rồi nói: “Nhanh lên nào! Nhanh lên nào!”

看著他大汗淋漓的樣子,我忍不住感嘆!一個人的修養,要看他疲憊時的模樣。舒服的時候,大部分人都樂善好施。唯有身心疲憊時,還能體諒別人的苦,才是深到骨子裡的善良。

Kànzhe tā dà hàn línlí de yàngzi, wǒ rěn bù zhù gǎntàn! Yīgèrén de xiūyǎng, yào kàn tā píbèi shí de múyàng. Shūfú de shíhòu, dà bùfèn rén dōu lèshànhàoshī. Wéi yǒu shēnxīn píbèi shí, hái néng tǐliàng biérén de kǔ, cái shì shēn dào gǔzilǐ de shànliáng.

Nhìn thấy cậu ấy mồ hôi nhễ nhại, tôi không khỏi xúc động, muốn biết về sự tu dưỡng của một người chỉ cần xem bộ dạng của họ khi mệt mỏi.  Lúc thoải mái thì đa số mọi người đều thích làm việc tốt. Chỉ khi người mệt mỏi và khó chịu, mà vẫn có thể thấu hiểu cho nỗi khổ của người khác, mới là sự lương thiện đã ngấm vào xương tủy.

Không dùng cảm xúc khó chịu của mình trút lên người khác

所謂自控力,無非就是不要用你的遭遇懲罰別人而已。

Suǒwèi zìkòng lì, wúfēi jiùshì bùyào yòng nǐ de zāoyù chéngfá biérén éryǐ.

Cái gọi là “khả năng tự kiềm chế”, không phải là giận cá chém thớt, dùng cảm xúc khó chịu của mình trút lên người khác.

有些人,只要一累,眼裡、心裡就只剩下自己,不僅不能指望他給你加油打氣,還得忙著安撫他的壞脾氣;而另一些人,無論多疲憊,都懂得體諒你的不容易,即使不能幫你分擔,至少不給你添麻煩。個中差距,可見一斑。

Yǒuxiē rén, zhǐyào yī lèi, yǎn lǐ, xīnlǐ jiù zhǐ shèng xià zìjǐ, bùjǐn bùnéng zhǐwàng tā gěi nǐ jiāyóu dǎqì, hái dé mángzhe ānfǔ tā de huài píqì; ér lìng yīxiē rén, wúlùn duō píbèi, dōu dǒngdé tǐliàng nǐ de bù róngyì, jíshǐ bu néng bāng nǐ fēndān, zhì shào bù gěi nǐ tiān máfan. Gè zhōng chājù, kějiàn yībān.

Có một số người, chỉ cần hơi mệt một chút là trong mắt, trong lòng người ấy chỉ còn lại mỗi bản thân mình. Với những người này, bạn không thể trông mong họ khích lệ bạn, mà còn phải nhanh chóng vỗ về họ. Nhưng một số người, dù mệt mỏi như thế nào cũng đều thông cảm với những khó khăn của bạn. Dù họ không thể gánh vác cùng bạn, nhưng ít nhất cũng sẽ không mang thêm phiền phức cho bạn. 

日常生活裡,這樣的人也不少見。逛街、吃飯、開車,總能看見吵架的人,而且越忙碌的地方,吵架的人越多。

Rìcháng shēnghuó lǐ, zhèyàng de rén yě bù shǎojiàn. Guàngjiē, chīfàn, kāichē, zǒng néng kànjiàn chǎojià de rén, érqiě yuè mánglù dì dìfāng, chǎojià de rén yuè duō.

Trong cuộc sống hàng ngày, những người như vậy không hiếm. Khi dạo phố, lúc ăn cơm, hay lái xe, chúng ta thường gặp cảnh mọi người tranh cãi, những nơi càng tấp nập thì số người cãi vã lại càng nhiều.

那些平時談吐不凡的高端人士,一旦疲憊就暴露了修養低下的本質。

Nàxiē píngshí tántǔ bu fán de gāoduān rénshì, yīdàn píbèi jiù bàolùle xiūyǎng dīxià de běnzhí.

Những nhân vật có địa vị bình thường nói năng thanh tao nhã nhặn, nhưng tới khi mệt mỏi lại bộc lộ bản chất tu dưỡng thấp kém của mình.

幾乎每次坐長途飛機,我都能遇上對空姐不依不饒的乘客,他們明知道空姐有很多無法踰越的許可權,有很多無可奈何的難處,卻還是不加收斂地把怨氣都發洩在她們身上,而讓他們理直氣壯的唯一理由就是:我累了。

Jīhū měi cì zuò chángtú fēijī, wǒ dū néng yù shàng duì kōngjiě bùyī bù ráo de chéngkè, tāmen míng zhīdào kōngjiě yǒu hěnduō wúfǎ yúyuè de xǔkě quán, yǒu hěnduō wúkěnàihé de nánchu, què háishì bù jiā shōuliǎn de bǎ yuànqì dōu fāxiè zài tāmen shēnshang, ér ràng tāmen lǐzhíqìzhuàng de wéiyī lǐyóu jiùshì: Wǒ lèile.

Hầu như mỗi lần đi máy bay đường dài, tôi đều gặp những hành khách khi không được như ý liền sinh sự với tiếp viên hàng không. Họ biết rõ tiếp viên hàng không có rất nhiều giới hạn không được vượt qua, có rất nhiều chỗ khó đành phải bất lực. Nhưng họ lại trút giận một cách vô cớ lên đầu các cô gái, còn tuyên bố lý do một cách đường hoàng là: “Tôi mệt rồi!”

這不是幼稚的巨嬰心態,說到底還是修養不夠好。

Zhè bùshì yòuzhì de jù yīng xīntài, shuō dàodǐ háishì xiūyǎng bùgòu hǎo.

Đây không phải là tâm thái ấu trĩ của những ‘đứa trẻ to xác’ hay sao? Nói cho cùng, là do sự tu dưỡng thấp kém.

Khi sức tàn lực kiệt mới nhìn ra tu dưỡng của một người

神清氣爽的時候,每個人都願意出手相助,唯有精疲力盡時,才能看出一個人的修養。修養越好的人,自控力越強。所謂自控力,無非就是不要用你的遭遇懲罰別人而已。

Shén qīng qì shuǎng de shíhòu, měi gèrén dōu yuànyì chūshǒu xiāngzhù, wéi yǒu jīng pí lì jìn shí, cáinéng kàn chū yīgèrén de xiūyǎng. Xiūyǎng yuè hǎo de rén, zìkòng lì yuè qiáng. Suǒwèi zìkòng lì, wúfēi jiùshì bùyào yòng nǐ de zāoyù chéngfá biérén éryǐ.

Lúc tinh thần sảng khoái thì ai nấy đều sẵn lòng ra tay trợ giúp, chỉ khi sức tàn lực kiệt mới có thể nhìn ra sự tu dưỡng của một người. Người tu dưỡng càng tốt thì càng có khả năng kiềm chế bản thân. Khả năng kiềm chế chính là đừng đem sự khó chịu của mình đổ lên đầu người khác để trừng phạt họ.

我們老闆就有一條金科玉律:不要在深夜發郵件,不要在睡不好覺的時候見客戶。

Wǒmen lǎobǎn jiù yǒu yītiáo jīnkēyùlǜ: Bùyào zài shēnyè fā yóujiàn, bùyào zài shuì bù hǎo jué de shíhòu jiàn kèhù.

Sếp tôi có một quy định khuôn vàng thước ngọc là: đừng gửi email vào lúc nửa đêm, đừng gặp khách hàng vào lúc khó ngủ.

所以,每次客戶不必要的加班要求,他都會推掉。然後,早早地把我們轟回家睡覺。他總說,睡不好覺的時候,三觀容易扭曲。我想,他大概知道,疲憊的時候,容易暴露人性。

Suǒyǐ, měi cì kèhù bù bìyào de jiābān yāoqiú, tā dūhuì tuī diào. Ránhòu, zǎozǎo de bǎ wǒmen hōng huí jiā shuìjiào. Tā zǒng shuō, shuì bù hǎo jué de shíhòu, sān guān róngyì niǔqū. Wǒ xiǎng, tā dàgài zhīdào, píbèi de shíhòu, róngyì bàolù rénxìng.

Cho nên, mỗi lần khách hàng yêu cầu tăng ca một cách không cần thiết thì ông đều từ chối. Sau đó, ông đuổi chúng tôi về nhà và dặn phải đi ngủ thật sớm. Ông thường nói, ngủ nghỉ không tốt dễ sinh cáu giận. Tôi thầm nghĩ có lẽ ông cũng biết khi mệt mỏi con người dễ bộc lộ những tính xấu nhiều hơn.

而人性大多不太好看,這幾年在職場,我見過不少血淋淋的教訓:

Ér rénxìng dàduō bù tài hǎokàn, zhè jǐ nián zài zhíchǎng, wǒ jiànguò bu shǎo xiělínlín de jiàoxùn:

Nhân tính con người rất khó để nhận biết, trong vài năm lăn lộn nơi quan trường, tôi cũng học được không ít bài học đắt giá.

合作多年的商業夥伴,因為一點蠅頭小利誰也不肯退讓一步;相識已久的老同事,因為一點意見分歧就髒話連篇;也有不少人勤勤懇懇工作了許多年,最終敗給了一個沒睡覺的夜晚,而這其中大部分的悲劇!都是在人最疲憊的那一刻發生的。

Hézuò duōnián de shāngyè huǒbàn, yīn wéi yīdiǎn yíngtóu xiǎo lì shuí yě bù kěn tuìràng yībù; xiāngshí yǐ jiǔ de lǎo tóngshì, yīn wéi yīdiǎn yìjiàn fēnqí jiù zānghuà liánpiān; yěyǒu bù shǎo rén qínqín kěn kěn gōngzuòle xǔduō nián, zuìzhōng bài gěile yīgè méi shuìjiào de yèwǎn, ér zhè qízhōng dà bùfèn de bēijù! Dōu shì zài rén zuì píbèi dì nà yīkè fāshēng de.

Nhiều đối tác thương mại từng hợp tác nhiều năm lại không chịu nhường một bước chỉ vì một chút lợi ích nhỏ nhoi. Những đồng nghiệp quen biết lâu năm, chỉ vì ý kiến bất đồng mà xả ra một tràng những lời dung tục. Cũng có không ít người chăm chỉ cần mẫn làm việc biết bao năm lại thất bại chỉ vì một đêm mất ngủ mà sơ sểnh làm hỏng việc. Đa số những điều này xảy ra như một bi kịch! Chúng cứ chờ đợi đúng giây phút con người thấy mệt mỏi nhất mà xuất hiện.

Điều quan trọng nhất là bạn về đích với tâm thái như thế nào

更重要的是你以什麼樣的姿態到達終點。

Gèng zhòngyào de shì nǐ yǐ shénme yàng de zītài dàodá zhōngdiǎn.

Điều quan trọng nhất là bạn về đích với tâm thái như thế nào

有個老同事有一次悄悄地跟我說,要想知道一個人適不適合組隊,週五晚上見。

Yǒu gè lǎo tóngshì yǒu yīcì qiāoqiāo de gēn wǒ shuō, yào xiǎng zhīdào yīgèrén shì bùshìhé zǔ duì, zhōu wǔ wǎnshàng jiàn.

Lần nọ có một đồng nghiệp cũ thì thầm với tôi rằng: “Muốn biết một người có thích hợp để cho vào cùng một đội hay không, thì cứ quan sát họ vào buổi tối thứ 6”.

為此,我真的仔細觀察過週五晚上加班的人們的表現,果然是洋相百出。

Wèi cǐ, wǒ zhēn de zǐxì guāncháguò zhōu wǔ wǎnshàng jiābān de rénmen de biǎoxiàn, guǒrán shì yángxiàng bǎichū.

Thế là tôi cẩn thận quan sát biểu hiện của những người tăng ca vào tối thứ 6, quả nhiên là muôn hình vạn trạng.

有人在電話裡歇斯底里地和家人吼叫,有人因為菜品不對和外賣小弟沒完沒了地吵架,甚至還有人埋怨同事笨手笨腳害他大週末的還要加班。

Yǒurén zài diànhuà lǐ xiēsīdǐlǐ de hé jiārén hǒujiào, yǒurén yīnwèi càipǐn bùduì hé wàimài xiǎodì méiwán méiliǎo de chǎojià, shènzhì hái yǒurén mányuàn tóngshì bènshǒubènjiǎo hài tā dà zhōumò de hái yào jiābān.

Có người thì giận dữ quát tháo trong điện thoại với người nhà, có người lại cãi cọ liên hồi với mấy cậu bán hàng bên ngoài vì đồ ăn không như ý. Thậm chí có người còn oán trách đồng nghiệp lề mề chậm chạp, khiến cậu ấy cuối tuần vẫn phải tăng ca.

可這些人白天明明就是一些不計較得失、不衝動行事的精英。想想令人唏噓。

Kě zhèxiē rén báitiān míngmíng jiùshì yīxiē bù jìjiào déshī, bù chōngdòng xíngshì de jīngyīng. Xiǎng xiǎng lìng rén xīxū.

Trong khi những người này ban ngày đều là những người ưu tú, không hề so bì thiệt hơn, và làm việc rất cẩn trọng. Khi chứng kiến điều này ngồi ngẫm lại tôi cũng không khỏi ngậm ngùi.

可也有些人明明已經熬了好幾天,還能笑著走到你身邊來問,需不需要幫忙。說真的,這樣的人就是您最好的隊友。

Kě yě yǒuxiē rén míngmíng yǐjīng áole hǎo jǐ tiān, hái néng xiàozhe zǒu dào nǐ shēnbiān lái wèn, xū bù xūyào bāngmáng. Shuō zhēn de, zhèyàng de rén jiùshì nín zuì hǎo de duìyǒu.

Nhưng cũng có một số người rõ ràng là họ đã thức suốt mấy đêm liền, nhưng vẫn có thể mỉm cười đến bên bạn, hỏi xem bạn có cần giúp gì không. Nói thật, người như vậy mới là đồng đội tốt nhất của bạn.

Tự mình dừng lại

我曾經問辦公室裡的一個這樣的同事,如果我真的累到忍不住發飆怎麼辦。他只說了四個字:自己待著。

Wǒ céngjīng wèn bàngōngshì lǐ de yīgè zhèyàng de tóngshì, rúguǒ wǒ zhēn de lèi dào rěn bù zhù fābiāo zěnme bàn. Tā zhǐ shuōle sì gè zì: Zìjǐ dàizhuó.

Tôi từng hỏi một đồng nghiệp trong văn phòng mình rằng: “Nếu tôi mệt tới mức không thể kiềm chế nổi mà nổi điên lên thì phải làm thế nào?”. Anh ấy chỉ nói 4 chữ: “Tự mình dừng lại”.

當然,修養好的人不是神,他們也會疲憊,也需要安慰。可是,他們懂得在疲憊的時候,先處理自己的傷口,而不是隨便把自己的壞情緒丟給別人。

Dāngrán, xiūyǎng hǎo de rén bùshì shén, tāmen yě huì píbèi, yě xūyào ānwèi. Kěshì, tāmen dǒngdé zài píbèi de shíhòu, xiān chǔlǐ zìjǐ de shāngkǒu, ér bùshì suíbiàn bǎ zìjǐ de huài qíngxù diū gěi biérén.

Đương nhiên, những người tu dưỡng tốt không phải là thần, họ cũng sẽ mệt mỏi, cũng cần được an ủi. Nhưng họ hiểu rằng khi mệt mỏi thì phải tự xử lý tốt vết thương của mình, chứ không phải là tùy tiện mang bực tức, mệt mỏi của bản thân trút lên đầu người khác.

Gian nan mới đo được lòng người

很多人說,筋疲力盡的時候,人的行為舉止是不受大腦支配的,情緒、心境、乃至看待世界的角度都會變得消極暗淡。這一點,我深有體會。

Hěnduō rén shuō, jīnpílìjìn de shíhòu, rén de xíngwéi jǔzhǐ shì bù shòu dànǎo zhīpèi de, qíngxù, xīnjìng, nǎizhì kàndài shìjiè de jiǎodù dūhuì biàn dé xiāojí àndàn. Zhè yīdiǎn, wǒ shēn yǒu tǐhuì.

Có nhiều người nói rằng, khi sức tàn lực kiệt thì hành vi và cử chỉ của họ sẽ không do đại não chi phối nữa, mà là cảm xúc đang lên ngôi. Lúc ấy tình cảm, tâm trạng, thậm chí là thế giới quan của họ cũng trở nên tiêu cực, ảm đạm. Về điểm này, tôi đã được lĩnh hội sâu sắc.

如果連續幾天熬夜加班,我一整天都會很暴躁,商品斷貨、送餐超時、交通擁堵、行人亂闖,平時那些絕不會放在心上的事,突然變得很困擾,然後開始忍不住對無辜的人發脾氣。

Rúguǒ liánxù jǐ tiān áoyè jiābān, wǒ yī zhěng tiān dūhuì hěn bàozào, shāngpǐn duàn huò, sòng cān chāo shí, jiāotōng yǒng dǔ, xíngrén luàn chuǎng, píngshí nàxiē jué bù huì fàng zàixīn shàng de shì, túrán biàn dé hěn kùnrǎo, ránhòu kāishǐ rěn bù zhù duì wúgū de rén fā píqì.

Nếu phải thức trắng vài đêm để tăng ca, thì cả ngày hôm sau tôi sẽ rất nóng nảy. Bình thường nếu gặp cảnh hàng hoá thiếu hụt, giao cơm muộn, giao thông tắc nghẽn, người đi đường chạy xe loạn bát nháo, tôi cũng chẳng để tâm. Nhưng khi trong người mệt mỏi đột nhiên tôi sẽ thấy khó chịu với chúng. Sau đó tôi sẽ không thể chịu đựng thêm được nữa và bắt đầu vô cớ trút giận lên người khác.

但正是這種艱難的時刻拉開了人與人之間的段位。就像爬山,前半程每個人都意氣風發。唯有力竭時,才能看出差距。而這種差距不僅僅是你能以多快的速度攀上頂峰,更重要的是,你以什麼樣的姿態到達終點,因為這個姿態裡,就是一個人深到骨子裡的修養。而這樣的人,才真正值得交.

Dàn zhèng shì zhè zhǒng jiānnán de shíkè lā kāile rén yǔ rén zhī jiān de duànwèi. Jiù xiàng páshān, qiánbàn chéng měi gèrén dōu yìqìfēngfā. Wéi yǒu lì jié shí, cáinéng kàn chū chāi jù. Ér zhè zhǒng chājù bùjǐn jǐn shì nǐ néng yǐ duō kuài de sùdù pān shàng dǐngfēng, gèng zhòngyào de shì, nǐ yǐ shénme yàng de zītài dàodá zhōngdiǎn, yīnwèi zhège zītài lǐ, jiùshì yīgèrén shēn dào gǔzilǐ de xiūyǎng. Ér zhèyàng de rén, cái zhēnzhèng zhídé jiāo.

Nhưng thường thì đúng vào những lúc gian nan như vậy mới đo được trình độ tu dưỡng tâm tính giữa người với người. Cũng giống như leo núi: Trong nửa quãng đường đầu tiên ai nấy đều hừng hực khí thế. Chỉ tới khi sức tàn lực kiệt thì mới nhìn thấy sự chênh lệch. Sự chênh lệch này không chỉ là bạn có thể leo lên tới đỉnh với tốc độ nhanh thế nào, mà quan trọng hơn mà là bạn về đích với tâm thái ra sao. Bởi vì trong tâm thái này chứa đựng sự tu dưỡng đã ngấm sâu vào tận xương tủy. Người như vậy mới thực sự đáng để kết giao.

Nguồn tiếng Trung: ET tiếng Trung, bản dịch tiếng Việt: Tinh Hoa